EVALUATION THE RESULTS AFTER INDUCTION OF LABOR IN LATE TERM PREGNANCY AT KIEN GIANG GENERAL HOSPITAL IN 2020-2021

Huu Thuong Nguyen 1,, Kim Phung Quan2, Thi Thu Nguyen 2, Duc Tam Lam2
1 Kien Giang General Hospital
2 Can Tho University of Medicine and Pharmacy

Main Article Content

Abstract

Background: Induction of labor for fetuses beyond the due date reduces the risks such as fetal distress, stillbirth, and perinatal death. Currently, there are many methods of labor from mechanical dilatation to medication with a success rate of 40-90% but with high cost or unwanted effects. Objective: describe the characteristics and evaluate the results of labor induction in fetuses beyond the due date at the Hospital. Materials and methods: All cases with a gestational age of 40 weeks 1 day or more to the hospital for treatment at the Department of Obstetrics and Gynecology Kien Giang of General Hospital from April 2020 to June 2021. Results: In 161 cases of induction of labor by Foley catheter, there was a normal delivery rate of 44.72%. The average time from the moment of by Foley catheter to the time of withdrawal of the Foley ball was on average: 7.39 ± 4.4 hours. The time to place the ball <6 hours accounted for 47.83%, the time to place the ball from     6-12 hours accounted for 40.37%. After withdrawing Foley ball. Most children had good Apgar: 1 minute ≥7points: 99.38%; Apgar 5 minutes >8 points accounted for 99.38%. The average birth weight of children in the study was 3224 ± 249g. The rate of pregnant women with uterine atony accounts for 4.35%; perineal tear 3.37%, bleeding 2.48%, postpartum infection 1.86%. Conclusion: Induction of labor in fetuses beyond the due date is effective and safe.

Article Details

References

1. Phan Thị Như Bích, Trần Mạnh Linh (2020), Giá trị chỉ số Bishop trong tiên lượng khởi phát chuyển dạ bằng phương pháp lóc ối, Tạp chí Phụ Sản, 18(2), tr.15-22.
2. Mai Thị Mỹ Duyên (2019), Hiệu quả khởi phát chuyển dạ của ống thông Foley đặt qua kênh cổ tử cung ở thai trưởng thành tại Bệnh viện Đa khoa Tây Ninh, Tạp chí Nghiên cứu Y học, 18(1), tr.157-162.
3. Nguyễn Thị Lâm Hà, Võ Minh Tuấn (2016), Hiệu quả khởi phát chuyển dạ của ống thông Foley đặt qua kênh cổ tử cung ở thai trưởng thành tại Bệnh viện Đa khoa Bà Rịa, Tạp chí Nghiên cứu Y học, 20(1), tr.322-327.
4. Hoàng Thế Hiệp (2016), Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và thái độ xử trí thai quá ngày sinh dự đoán, Luận văn thạc sĩ y học, Trường Đại học Y Dược Huế.
5. Hồ Thái Phong, Phan Việt Thanh (2015), Hiệu quả khởi phát chuyển dạ của thông Foley đặt lỗ trong cổ tử cung ở thai quá ngày tại Bệnh viện Đa khoa An Giang, Tạp chí Phụ sản, 13(2), tr.20-23.
6. Nguyễn Thị Anh Phương, Huỳnh Nguyễn Khánh Trang (2016), So sánh hiệu quả khởi phát chuyển dạ của thông Foley bóng đôi cải tiến và bóng đơn đặt kênh cổ tử cung ở thai trưởng thành tại Bệnh viện Hùng Vương, Tạp chí Nghiên cứu Y học, 20(1), tr.316-321.
7. Nguyễn Hà Ngọc Uyên và cộng sự (2018), Đánh giá hiệu quả của thông Foley 2 bòng cải tiền trong khởi phát chuyển dạ ở thai quá ngày dự sinh, Luận án chuyên khoa 2, Trường Đại học Y Dược Cần Thơ.
8. Trần Đình Vĩnh và cộng sự (2019), Hiệu quả khởi phát chuyển dạ của ống thông Foley đặt qua kênh cổ tử cung ở thai ≥37 tuần tại Bệnh viện Phụ Sản Nhi Đà Nẵng, Tạp chí Phụ sản, 16(04), tr.50-55.
9. Cromi A et al. (2007), Cervical ripening with the Foley catheter, Int J Gynaecol Ostet, 97(2): pp.105-9.
10. Grange J et al. (2017), Comparaison sonde à double ballonet-dinoprostone pour la maturation cervicale chez lé femmes obese à terme, Gynecologie Obstertrique Fertilite and Senologie, 83, pp.1-7.
11. Khaldoun, Khamaised, et al. (2012), Prostaglandin E2 versus Foley catheter balloon for induction of labor at tem: a randomized controlled study. Journal of the Royal medical servives, 19 (4), pp.37-42.