KHẢO SÁT TỈ LỆ ĐẶT NỘI KHÍ QUẢN KHÓ VÀ CÁC YẾU TỐ TIÊN LƯỢNG TẠI BỆNH VIỆN TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC CẦN THƠ

Vũ Văn Kim Long1, Lâm Kim Tuyến1,, Võ Nguyên Hồng Phúc1, Trần Văn Đăng1, Lê Vũ Linh1, Nguyễn Anh Duy2, Nguyễn Thị Tuyết Minh1
1 Trường Đại học Y Dược Cần Thơ
2 Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Cần Thơ

Nội dung chính của bài viết

Tóm tắt

Đặt vấn đề: Nội khí quản khó là thách thức trong kiểm soát đường thở. Dù có nhiều yếu tố giúp tiên lượng, nhưng chưa có tiêu chuẩn vàng để dự báo chính xác tình trạng này. Nội khí quản khó có thể dẫn đến thất bại trong việc đặt ống, do đó bác sĩ cần chuẩn bị kỹ để ứng phó với các tình huống bất ngờ. Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tỉ lệ đặt nội khí quản khó, tìm hiểu các yếu tố tiên lượng và khảo sát các biến chứng khi đặt nội khí quản tại Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Cần Thơ. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiến cứu, cắt ngang, từ tháng 5 năm 2023 đến tháng 5 năm 2024 trên 334 bệnh nhân phẫu thuật có gây mê nội khí quản. Kết quả: Tỉ lệ nội khí quản khó là 5,1% theo Cormack-Lehane. Những bệnh nhân có từ hai yếu tố tiên lượng trở lên đều gặp khó khăn khi đặt nội khí quản; đặc biệt, béo phì và cổ ngắn. Có 2,1% trường hợp phải đặt nội khí quản lần thứ ba. Các biến chứng chủ yếu gồm 3% tổn thương sớm như rách môi, lưỡi, sây sát vùng hầu họng, 3,3% biến chứng muộn như phù nề và khàn giọng. Ngoài ra, có 03 trường hợp co thắt đường thở, trong đó 02 trường hợp liên quan đến nội khí quản khó. Kết luận: Cần đánh giá chính xác nguy cơ nội khí quản khó để có kế hoạch xử trí phù hợp, đồng thời trang bị đầy đủ dụng cụ hỗ trợ và sử dụng chúng một cách thuần thục để kiểm soát đường thở hiệu quả.

Chi tiết bài viết

Tài liệu tham khảo

1. Kim S. H., S. J. Woo, và J. H. Kim. A comparison of Bonfils intubation fiberscopy and fiberoptic bronchoscopy in difficult airways assisted with direct laryngoscopy. Korean J Anesthesiol. 2010.58(3), 249, Doi: 10.4097/kjae.2010.58.3.249.
2. Mohamed Naguib, Franklin L. Scamman, Cormac O'Sullivan et all. Predictive Performance of Three Multivariate Difficult Tracheal Intubation Models: A double- Blind,Case-Controlled Study. Anesth Analg. 2006.102, 818-824, Doi: 10.1213/01.ane.0000196507.19771.b2
3. R. Freedman, L. Herbert, A. O’Donnell, N. Ross, I. H. Wilson, và K. G. Allman, B.t.v. Oxford Handbook of Anaesthesia 5th. Oxford University Press. 2022, 223-224, Doi: 10.1093/med/9780198853053.001.0001.
4. Nguyễn Phú Vân. Nghiên cứu các yếu tố tiên lượng và một số phương pháp xử trí đặt nội khí quản khó trên bệnh nhân có bệnh đường thở trong phẫu thuật tai mũi họng. Đại học Y Hà Nội. 2018. 50.
5. Huỳnh Tuấn Hải. Nghiên cứu các yếu tố tiên lượng đặt nội khí quản khó trong gây mê toàn diện. Tạp chí Y học Thực hành. 2016, vol Công trình nghiên cứu khoa học Đại hội gây mê toàn quốc 2016, 28.
6. Nguyễn Văn Chừng và Trần Thị Cẩm Nhung. Nghiên cứu những yếu tố tiên lượng đặt nội khí quản khó trong phẫu thuật tuyến giáp. Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh. 2011, 98.
7. Ngô Văn Dũng. Nghiên cứu các yếu tố tiên lượng đặt nội khí quản khó trong gây mê toàn diện.
Tạp chí Y học Thực hành. 2017, 679(10), 19.
8. B. E. Driver và c.s. Effect of Use of a Bougie vs Endotracheal Tube and Stylet on First-Attempt Intubation Success Among Patients With Difficult Airways Undergoing Emergency Intubation: A Randomized Clinical Trial. JAMA. 2018, 319(21), 2179, doi: 10.1001/jama.2018.6496.
9. J. E. Fiadjoe và c.s. Airway management complications in children with difficult tracheal intubation from the Pediatric Difficult Intubation (PeDI) registry: a prospective cohort analysis. The Lancet Respiratory Medicine. 2016, vol 4(1), 37–48, doi: 10.1016/S2213-2600(15)00508-1.
10. R. Park và c.s. The efficacy of GlideScope® videolaryngoscopy compared with direct laryngoscopy in children who are difficult to intubate: an analysis from the paediatric difficult intubation registry. British Journal of Anaesthesia. 2017, 119(5), 984–992, doi: 10.1093/bja/aex344.